Làng nghề Kiêu Kỵ

Kiêu Kỵ là một xã thuộc huyện Gia Lâm; phía Bắc giáp xã Dương Xá, Thị trấn Trâu Quỳ; phía Đông Nam giáp Hưng Yên; phía Tây Nam giáp xã Đa Tốn.

Diện tích đất toàn xã 547,6 ha với tổng số dân khoảng 9.000 người; trong đó đất nông nghiệp 328 ha chiếm 59,95%; đất chuyên dùng 155,5 ha chiếm 28,40%; đất dân cư 61 ha chiếm 11,13%; đất chưa sử dụng 2,8 ha chiếm 0,52%. Xã Kiêu Kỵ nằm trải dài theo trục đường 179, từ Quốc lộ 5 đến trung tâm của xã khoảng 1km. Với vị trí ấy Kiêu Kỵ có nhiều thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nói chung và phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp nói riêng.
Kiêu Kỵ có 2 nghề truyền thống là sản xuất vàng quỳ và nghề may đồ da, giả da.
Nghề quỳ vàng bạc xuất hiện ở Kiêu Kỵ cách đây trên 300 năm, dưới thời Hậu Lê. Thuở ấy có ông Nguyễn Quý Trị, người làng Hội Xuyên, xã Liễu Trai (Hải Dương), ông đỗ Tiến sĩ vào năm Quý Mùi, thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786) làm quan đến chức Binh bộ Tả Thị lang - Hàn lâm Viện trực học sĩ. Trong một lần ông đi sứ bên Trung Quốc học được nghề dát dập vàng bạc để sơn son thiếp vàng các đồ thờ cúng và hoành phi, câu đối... Khi về nước ông truyền lại nghề này cho dân làng Kiêu Kỵ. Sau khi ông Nguyễn Quý Trị đã truyền nghề quỳ vàng bạc cho dân làng, thì vào ngày 17/8 âm lịch, ông bỏ đi đâu không ai rõ tung tích. Để tưởng nhớ tới công ơn của ông, dân làng Kiêu Kỵ đã suy tôn Nguyễn Quý Trị là Tổ sư nghề quỳ vàng bạc, và lấy ngày ông ra đi làm ngày cúng giỗ Tổ sư hàng năm. Xưa kia, việc lo cúng lễ vào dịp giỗ Tổ nghề do dân của 4 chạ: Chạ Đông, chạ Nam, chạ Đoài và chạ Bắc của làng cùng thay nhau gánh vác.
 Các cụ già có nhiều thâm niên trong nghề quỳ vàng bạc kể lại rằng đây là một nghề độc nhất vô nhị ở nước ta, và lưu truyền gìn giữ được cho đến ngày nay.
Ngoài ngày giỗ Tổ nghề vào ngày 17/8 ra, dân làng Kiêu Kỵ còn có tục lệ cúng lễ Tổ nghề vào ngày 12 tháng Giêng, các gia đình theo nghề quỳ vàng bạc làm lễ xôi gà đem đến cúng Tổ nghề tại điện thờ trong nhà Tràng. Sau đó về nhà làm nghi thức “khai tràng” (tức là lễ khai búa đập quỳ). Do đó ngày 12 tháng Giêng trở thành ngày khai tràng đập quỳ của dân làng.
Trước Cách mạng tháng 8, nghề làm vàng quý khá phát đạt, cung cấp vàng quỳ cho hầu hết các công trình tín ngưỡng cung đình để dát lên các tượng phật, ngai vàng, hoành phi, câu đối, kiệu rước, cả tranh sơn mài nữa… Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, nghề làm vàng quỳ gần như bị mai một, dân làng chuyển sang làm nghề sản xuất đồ dùng bằng da và giả da. Sau ngày thống nhất đất nước, nhất là thời kỳ kinh tế mở cửa, các công trình văn hoá, các di tích lịch sử được khôi phục hoặc xây dựng mới rất cần đến vàng quỳ, do đó nghề truyền thống ở Kiêu Kỵ được khôi phục và phát triển. Hiện có gần 50 gia đình chuyên kinh doanh vàng quỳ, nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn, có tới 20 thợ làm việc. Nhờ vậy, hàng trăm thanh niên sau khi rời khỏi trường phổ thông và vài trăm lao động nữ có công việc làm với thu nhập ổn định.
Từ những thỏi vàng, bạc thật được đập cho dài và mỏng (gọi là đập diệp) có bề ngang 1cm, được cắt thành những hình vuông nhỏ 1cm2 rồi đặt vào lá quỳ. Lá quỳ có cạnh dài 4cm được kén từ loại giấy dó (giấy làm tranh Đông Hồ) mỏng và dai, được "lướt" nhiều lần bằng mực tự chế làm bằng loại bồ hóng đặc biệt, trộn với keo da trâu, tạo cho giấy quỳ bền chắc. Mỗi quỳ 500 lá, trên mỗi lá đặt một mảnh vàng nhỏ 1 cm2, dùng vải dường bâu Nam Định gói lại, đặt lên đe bằng đá, dùng loại búa chuyên dụng đập lên tập lá quỳ, sao cho mảnh vàng mỏng và tràn bằng lá quỳ. Cắt nhỏ lá vàng đã đập mỏng thành mười hai mảnh, lấy một mảnh đặt tiếp lên lá quỳ và tiếp tục đập mỏng. Người thợ giỏi có thể đập một chỉ vàng dàn mỏng thành tấm lá vàng có diện tích hơn 1m2. Muốn có một quỳ vàng, người thợ phải đập khoảng một giờ liên tục. Tính ra phải đập trên 400 nhát búa cho một quỳ vàng. Còn ở giai đoạn cuối, khi gỡ vàng trả khách, người thợ phải làm việc trong phòng kín, đeo khẩu trang và ngồi trong màn vì chỉ cần vô ý thở mạnh, vàng cũng đã bay tung. Khi sử dụng, người thợ dùng chiếc bay rất mỏng bằng xương hoặc mảng tre vát mỏng để giát vàng lên các sản phẩm; hoạ sĩ dùng bút vẽ với dầu sơn chấm vào vàng quỳ để vẽ lên tranh sơn mài.
Nghề làm vàng quỳ rất tinh xảo, tỉ mỉ, đòi hỏi nhiều thợ, kiên trì cần mẫn lao động với những thao tác và kỹ thuật. Từ việc xây lò kín và thấp, dùng mùn cưa trộn với keo da trâu, viên nhỏ đốt dưới chiếc nồi ang để tạo bồ hóng, làm mực "lướt" quỳ, vàng phải đập mỏng đều, không rách và chỉ cần lơ đãng )một chút là búa quỳ sẽ đập vào ngón tay… 1 chỉ vàng đập mỏng thành 980 lá có diện tích lớn hơn 1m2 thì chưa có ngành công nghiệp nào làm được, kể cả công nghiệp giát vàng của Nhật. Chính vì vậy, cho đến nay, Kiêu Kỵ vẫn là làng duy nhất trong cả nước làm nghề này. Hầu hết các làng làm nghề tạc tượng, khắc hoành phi, câu đối, hoặc làm hàng sơn mài như Sơn Đồng, Vũ Lăng, Hạ Thái (Hà Tây); Mai Động, Đồng Quang (Bắc Ninh); Liên Minh, Cát Đằng (Nam Định); Bảo Hà (Hải Phòng)…; nhiều nghệ nhân ở Đình Bảng, Huế và miền Nam đều là những bạn hàng thân thiết của Kiêu Kỵ. Không những xưa kia mà gần đây, các hoạ sĩ trang trí những công trình kiến trúc lớn cũng đã tìm đến vàng quỳ Kiêu Kỵ dùng cho việc trang trí nội thất của Nhà hát Lớn thành phố, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Lăng Bác và nhiều khách sạn lớn trong toàn quốc. Các di sản văn hoá, kiến trúc được UNESCO công nhận như Kinh đô Huế, Hội An, cả Văn Miếu Quốc Tử Giám càng không thể thiếu vàng quỳ, bạc quỳ.
Mọi người đều phải thừa nhận rằng nghề quỳ vàng bạc là một nghề truyền thống độc nhất vô nhị của nước ta, với nhiều cung đoạn khá phức tạp, nên một người thợ dù tài giỏi đến đâu đi nữa cũng không thể làm hết các công việc được. Và trên thực tế không có loại máy móc nào dù hiện đại đến đâu cũng khó có thể thay thế được đôi bàn tay khéo léo của người thợ thủ công của làng quê Kiêu Kỵ trong việc làm quỳ. Để làm ra một sản phẩm quỳ vàng hay quỳ bạc với chất lượng cao thì phải có sự kết hợp nhịp nhàng của nhiều người thợ trong một dây chuyền sản xuất đồng bộ và khép kín. Thực tế đã cho thấy, sản phẩm quỳ vàng và quỳ bạc do dân làng Kiêu Kỵ làm ra đã đáp ứng được yêu cầu của các nghệ nhân sơn thiếp vàng bạc và các nhà họa sĩ vẽ tranh sơn mài từ nhiều năm nay, và không chỉ nổi tiếng ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài.
Có thể nói sản phẩm quỳ vàng, quỳ bạc của làng Kiêu Kỵ đã góp phần làm đẹp cho đời. Đó chính là cái đẹp tiềm ẩn hay cái hồn trong mỗi pho tượng hay trong mỗi bức tranh do người thợ quỳ vàng bạc tài khéo của làng nghề Kiêu Kỵ góp phần làm ra đã từng nổi tiếng hàng trăm năm nay.
Bên cạnh đó Kiêu Kỵ còn nổi tiếng với nghề làm đồ dùng bằng da và giả da, có thể nói là nhất nước. Nghề này bắt đầu phát triển ở Kiêu Kỵ từ năm 1970 của thế kỷ trước. Khi đó, Hợp tác xã may da, vải bạt Kiêu Kỵ được thành lập. Ông Đinh Hữu Trạch, ông Vũ Danh Năng là hai cán bộ phụ trách thành lập ngành nghề. Lúc thành lập chỉ có 8 người: các ông Vũ Hữu Cơ, Phạm Đình Hàm, Lê Bá Hồng, Lê Hữu Duyến, Vũ Huy Hợi, Đinh Bá Tào, Nguyễn Đức Điền, Đinh Bá Hà. Sau phát triển rất đông, lúc này nghề làm ruộng, nghề quì, nghề may da rất thịnh vượng, dân ấm no. Đến năm 1989, Hợp tác xã giải thể không bao cấp, nghề may da được làm tự do.
Khác với nghề dát vàng, nghề may da phát triển khá nhanh. Từ đầu những năm 1990, các hộ kinh doanh cá thể ra đời góp phần làm cho kinh tế địa phương thêm phát triển và cải thiện đời sống. Cơ sở hạ tầng địa phương được nâng cấp, người dân xây nhà cửa cửa khang trang, tiện nghi đầy đủ. Hiện nay Kiêu Kỵ có khoảng 80 chủ hộ, khoảng 4.500 lao động tham gia may (có khoảng 2.000 máy khâu) và kinh doanh các phụ kiện khác như: thu gom vật liệu, thiết kế mẫu, cắt, tìm thị trường để tiêu thụ sản phẩm... Hằng năm, từ may da, các cơ sở đã sử dụng hàng ngàn mét vải giả da, hàng tấn nhựa các loại; hàng chục tấn giấy các-tông... để tạo ra hàng triệu sản phẩm các loại gồm: cặp, ba lô, túi sách, giày dép giả da, hàng nghìn đôi ô, dù phục vụ cho khách hàng đi du lịch. Doanh thu từ nghề may và kinh doanh các phụ kiện khác ở Kiêu Kỵ thường đạt 60 - 65% tổng thu nhập của toàn xã. Sản phẩm da của làng nghề không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Hàng năm, làng nghề đã sử dụng trên 400.000m2 vải giả da, sản xuất ra khoảng 3 triệu sản phẩm cặp, ba lô, túi xách, ô dù, nhà nghỉ dã ngoại bằng nguyên liệu giả da và trên 1.500 đôi giày dép da. Đặc biệt trong đó là công ty LADODA với các sản phẩm cặp túi da được người tiêu dùng bình chọn “Hàng Việt Nam chất lượng cao” và đoạt được nhiều giải thưởng tại các hội chợ triển lãm trong nước.
Năm 2006, Hội nghề da Kiêu Kỵ được thành lập với số lượng ban đầu là 50 hội viên với trên 300 hộ chuyên sản xuất tiểu thủ công nghiệp qui mô nhỏ, thu hút 1.035 lao động chuyên và 3.106 lao động thời vụ. Để khuyến khích phát triển làng nghề truyền thống, Sở Công nghiệp Hà Nội đã tham mưu UBND Thành phố và Bộ Công nghiệp hỗ trợ kinh phí thành lập Hội nghề da Kiêu Kỵ từ Quỹ khuyến công Quốc gia năm 2006. Căn cứ Chương trình khuyến công thành phố Hà Nội giai đoạn 2006-2010 được UBND Thành phố phê duyệt, Sở Công nghiệp đang và sẽ phối hợp với UBND huyện Gia Lâm, UBND xã Kiêu Kỵ và Hội nghề da Kiêu Kỵ xây dựng Kế hoạch khuyến công hàng năm để tiếp tục hỗ trợ kinh phí cho làng nghề Kiêu Kỵ thông qua các đề án khuyến công về hỗ trợ đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động cải tiến mẫu mã; tập huấn nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp cho các chủ cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp; hỗ trợ tư vấn cung cấp thông tin thị trường, xử lý môi trường; hỗ trợ kinh phí xây dựng mô hình trình diễn, áp dụng công nghệ, thiết bị mới; hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng quốc tế; hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở sản xuất kinh doanh của làng nghề tham gia các hội chợ triển lãm trong nước.
Đặc biệt, trong năm 2001, năm đầu của thiên niên kỷ mới, Kiêu Kỵ đã vinh dự được đón Chủ tịch nước Trần Đức Lương về thăm làng nghề và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh về tham gia tết trồng cây cùng với dân làng, nhằm phát động "Tết trồng cây ơn Bác" trong cả nước. Quả là chưa có một làng nghề nào mà vào dịp đầu năm được đón tiếp cả Chủ tịch nước và Tổng bí thư về thăm như vậy.
Cán bộ và nhân dân Kiêu Kỵ quyết tâm giữ gìn và phát triển nghề truyền thống mà tổ tiên truyền lại, động viên con cháu học lấy nghề và kế tục lâu dài cho muôn đời về sau. Tuy nhiên, trong xu thế chung cơ chế thị trường, việc phát triển làng nghề truyền thống, đặc biệt là nghề quỳ vàng bạc gặp không ít những khó khăn. Những người thợ thủ công sống chủ yếu nghề truyền thống ở Kiêu Kỵ có chung ước vọng - Đó là nhờ Nhà nước có biện pháp hữu hiệu can thiệp với ngành thủ công mỹ nghệ nên xây dựng kế hoạch phát triển ổn định trước mắt và lâu dài cho các làng nghề thủ công truyền thống ở ven đô trong đó có làng nghề quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ. Đồng thời chú trọng đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ có liên quan và sử dụng đến các sản phẩm quỳ vàng cũng như quỳ bạc của làng nghề Kiêu Kỵ, nhằm mục đích đảm bảo cho các gia đình sản xuất quỳ phát triển đúng hướng phục vụ theo nhu cầu thị trường ở trong nước và cả ở nước ngoài. Nếu có điều kiện thì Nhà nước nên đứng ra tổ chức lại sản xuất và bao tiêu sản phẩm nhằm giữ giá cả ổn định để người sản xuất quỳ đỡ bị thiệt thòi; Và làm họ yên tâm sống với nghề của ông cha để lại, góp phần làm đẹp cho đời và cho quê hương đất nước.
Nguồn gialam.gov.vn

Từ khóa : Làng nghề,Kiêu Kỵ